Thánh Vịnh 102 => Sách Thánh Vịnh | Kinh Thánh Cựu Ước (Bản dịch Việt ngữ của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ)



Thánh Vịnh 102 (101):
Lời than van rên siết trong cảnh gian truân

(1) Lời cầu của kẻ gặp khốn khó.
Trong cơn cùng khốn, người này dâng lời than vãn trước ÐỨC CHÚA.
 
 
    (2) Lạy CHÚA, xin nghe lời con cầu khẩn,
    tiếng con kêu, mong được thấu tới Ngài.

     (3) Buổi con gặp gian truân, xin Ngài đừng ẩn mặt,
    trong ngày con cầu cứu, xin Ngài lắng tai nghe
    và mau mau đáp lời.

     (4) Vì đời con : tháng ngày tan thành khói,
    xương tuỷ nóng ran như hoả lò.

     (5) Tim héo hắt tựa hồ cỏ giập,
    nên chẳng còn tưởng đến miếng ăn.

     (6) Vì con những kêu gào rên rẩm
    mà thân thể chỉ còn da bọc xương.

     (7) Con chẳng khác bồ nông miền sa mạc,
    tựa như cú vọ chốn hoang tàn.

     (8) Suốt năm canh trằn trọc,
    phận như chim lạc đàn đậu mái hiên.

     (9) Quân thù địch cả ngày phỉ báng,
    giận điên lên, chúng nguyền rủa thân này.

     (10) Ăn tro trấu đã thành cơm bữa,
    nước mắt hoà nước uống thường khi.

    (11) Vì Chúa nổi trận lôi đình, ra oai nộ khí,
    nhấc con lên, rồi quẳng ra xa.

     (12) Ngày tháng đời con : chiều tà bóng ngả,
    tấm thân này : cỏ úa vàng khô.

     (13) Nhưng lạy CHÚA, muôn đời Ngài ngự trị,
    trải bao thế hệ, thiên hạ nhắc đến Ngài.

     (14) Chính Ngài sẽ đứng dậy và thương xót Xi-on,
    vì nay đã đến thời thi ân giáng phúc.

     (15) Bề tôi Ngài lưu luyến đá tường thành sụp đổ,
    lòng những xót xa nhìn đống tro tàn.

     (16) Bấy giờ chư dân sẽ sợ uy danh CHÚA,
    mọi đế vương hoàn cầu uý kính Ngài vinh hiển.

     (17) Vì CHÚA sẽ xây dựng lại Xi-on,
    sẽ xuất hiện quang vinh rực rỡ.

     (18) Người đoái nghe dân bị bóc lột kêu cầu,
    chẳng khinh thường lời họ nguyện xin.

     (19) Ðiều này phải ghi lại cho đời sau được biết,
    dân hậu sinh phải ca tụng CHÚA TRỜI.

     (20) Vì CHÚA đưa mắt từ toà cao thánh điện,
    từ trời xanh đã nhìn xuống cõi trần,

     (21) để nghe kẻ tù đày rên xiết thở than
    và phóng thích những người mang án tử.

     (22) Rồi ra, ở Xi-on, người người sẽ rao truyền danh thánh CHÚA,
    tại Giê-ru-sa-lem, ai nấy ngợi khen Người,

     (23) khi mọi nước mọi dân
    tập trung về để thờ phượng CHÚA.

     (24)Chúa làm tôi kiệt lực giữa đường đời,
    tuổi thọ tôi, Người rút ngắn lại.

     (25) Con nói : lạy Thiên Chúa của con,
    Ngài là Ðấng vạn đại trường tồn,
    Xin đừng cất mạng con giữa cuộc đời dang dở.

     (26) Xưa Chúa đã đặt nền trái đất,
    chính tay Ngài tạo tác vòm trời.

     (27) Chúng tiêu tan, Chúa còn hoài,
    chúng như áo cũ thảy rồi mòn hao.
    Ngài thay chúng khác nào thay áo,

     (28) nhưng chính Ngài tiền hậu y nguyên;
    tháng năm Ngài vẫn triền miên.

     (29) Con cháu bề tôi sẽ an cư lạc nghiệp,
    và dòng giống tồn tại trước nhan Ngài.