Chương 52 => Sách Tiên Tri Yêrêmya (Giê-rê-mi-a) | Kinh Thánh Cựu Ước (Bản dịch Việt ngữ của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ)



VI. Phụ Trương

 

Thảm hoạ của Giê-rê-mi-a. Ủng hộ vua Giơ-hô-gia-khin. (2 V 24:18 - 25:7-21,27-30)

1 Xít-ki-gia-hu lên ngôi vua khi được hai mươi mốt tuổi, và trị vì mười một năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ của vua là Kha-mi-tan, con gái ông Giếc-mơ-gia-hu; bà là người Líp-na. 2 Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, hệt như vua Giơ-hô-gia-kim. 3 Chính vì Ðức Chúa nổi cơn thịnh nộ mà sự việc đã xảy ra như thế tại Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, cho đến khi Người xua đuổi họ đi khuất nhan Người.

4 Ngày mồng mười tháng mười, năm thứ chín triều Xít-ki-gia-hu, Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, cùng toàn thể đạo quân tiến đánh Giê-ru-sa-lem. Chúng đóng trại và đắp chiến luỹ chung quanh để đánh thành. 5 Thành bị vây hãm cho đến năm thứ mười một triều Xít-ki-gia-hu. 6 Ngày mồng chín tháng tư, nạn đói hoành hành trong thành và không có bánh cho dân trong xứ. 7 Thành bị chọc thủng một lỗ. Ðang đêm, tất cả các binh lính trốn ra khỏi thành, theo con đường cửa giữa hai bức tường, gần vườn của vua - bấy giờ quân Can-đê đang bao vây thành -, rồi họ đi theo con đường hướng tới A-ra-va. 8 Ðạo quân Can-đê rượt theo và đuổi kịp vua Xít-ki-gia-hu trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô. Toàn thể đạo quân của vua Xít-ki-gia-hu bỏ vua chạy tán loạn. 9 Chúng bắt được vua và đem lên Ríp-la, thuộc xứ Kha-mát gặp vua Ba-by-lon. Vua Ba-by-lon tuyên án kết tội vua Xít-ki-gia-hu. 10 Vua Ba-by-lon cắt cổ những người con của vua Xít-ki-gia-hu trước mắt vua cha. Cả những thủ lãnh của Giu-đa, vua Ba-by-lon cũng cắt cổ tại Ríp-la. 11 Rồi ông đâm mù mắt vua Xít-ki-gia-hu, lấy hai dây xích đồng xiềng vua lại; vua Ba-by-lon cho điệu Xít-ki-gia-hu về Ba-by-lon và giam ông trong nhà tù cho đến ngày ông chết.

12 Ngày mồng mười tháng năm - đó là năm thứ mười chín triều Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon - quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan, cận thần của vua Ba-by-lon, vào Giê-ru-sa-lem. 13 Ông đốt Nhà Ðức Chúa, đền vua và mọi nhà cửa ở Giê-ru-sa-lem; ông còn phóng hoả đốt mọi dinh thự các nhà quyền quý. 14 Toàn thể đạo quân Can-đê, dưới quyền quan chỉ huy thị vệ, phá huỷ mọi tường thành chung quanh Giê-ru-sa-lem.

15 Quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan bắt một phần dân cùng đinh, những người dân còn sót lại trong thành, những người đã đào ngũ theo vua Ba-by-lon và những người thợ thủ công còn sót lại, phải đi đày. 16 Nhưng quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan cho chừa lại một phần dân cùng đinh trong xứ để trồng nho và canh tác.

17 Quân Can-đê đập tan các cột đồng của Nhà Ðức Chúa, các giàn và bể nước bằng đồng trong Nhà Ðức Chúa, rồi mang tất cả đồng về Ba-by-lon. 18 Rồi chúng lấy nồi, xẻng, dao, các bình rẩy, các bình hương và mọi đồ bằng đồng dùng vào việc tế tự. 19 Quan chỉ huy thị vệ cũng lấy chén, khay đựng tro, các bình rẩy, nồi, chân đèn, bình hương và chén, các đồ này được làm bằng vàng, bằng bạc. 20 Còn hai cái cột của bể nước duy nhất và mười hai con bò bằng đồng kê bể nước, ở dưới cái giàn, mà vua Sa-lô-môn đã làm cho Nhà Ðức Chúa, thì người ta không thể xác định được số lượng đồng của tất cả những đồ vật đó. 21 Còn các cột, mỗi cột cao chín thước; bên trên đầu trụ cột, lấy dây mà đo chu vi thì được sáu thước, dày bốn đốt ngón tay; rỗng bên trong. 22 Cột ấy được đặt trên trụ bằng đồng, chiều cao của mỗi trụ là hai thước rưỡi. Có một màng lưới và những trái thạch lựu bọc chung quanh trên đầu trụ; tất cả đều bằng đồng. Cột thứ hai cũng vậy, và các trái thạch lựu... 23 Có chín mươi sáu trái thạch lựu treo lơ lửng. Tổng số trái thạch lựu là một trăm, treo chung quanh mạng lưới.

24 Quan chỉ huy thị vệ bắt giữ tư tế thủ lãnh Xơ-ra-gia, tư tế bậc hai Xơ-phan-gia và ba tư tế canh ngưỡng cửa. 25 Còn trong thành, ông bắt giữ một thái giám chỉ huy các binh lính, bảy cận thần của vua người ta tìm thấy trong thành, viên ký lục của tướng lãnh quân đội lo việc tuyển quân trong xứ và sáu mươi người dân trong xứ người ta tìm thấy ở trong thành. 26 Quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan bắt những người ấy và điệu tới vua Ba-by-lon ở Ríp-la. 27 Vua Ba-by-lon cho người đánh đập và giết chết họ ở Ríp-la, trong xứ Kha-mát. Và Giu-đa bị đày biệt xứ.

28 Ðây là số dân bị vua Na-bu-cô-đô-nô-xo bắt đi đày. Vào năm thứ bảy: có ba ngàn hai mươi ba người Giu-đa bị lưu đày. 29 Vào năm thứ mười tám triều Na-bu-cô-đô-nô-xo: có tám trăm ba mươi hai người Giê-ru-sa-lem bị lưu đày. 30 Vào năm thứ hai mươi ba triều Na-bu-cô-đô-nô-xo, quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan bắt bảy trăm bốn mươi lăm người Giu-đa đi lưu đày. Tổng số người phải lưu đày là bốn ngàn sáu trăm.

31 Nhưng, năm thứ ba mươi bảy kể từ khi vua Giu-đa là Giơ-hô-gia-khin bị lưu đày, tức là năm vua Ba-by-lon là E-vin Mơ-rô-đác lên ngôi, thì ngày hai mươi lăm tháng mười hai, vua này ân xá cho Giơ-hô-gia-khin, vua Giu-đa, và đưa ra khỏi nhà tù. 32 Vua Ba-by-lon tiếp chuyện vua một cách thân thiện và ban cho vua một ngai cao hơn ngai các vua khác đang có mặt tại Ba-by-lon. 33 Vua Ba-by-lon cho vua thay áo tù, và suốt đời, ngày ngày luôn được đồng bàn với mình. 34 Vua được vua Ba-by-lon cấp dưỡng liên tục, ngày nào cũng thế, trong suốt đời vua, cho đến khi vua chết.