Chương 7 => Thư Gửi Tín Hữu Hipri | Kinh Thánh Tân Ước (Bản dịch của LM Nguyễn Thế Thuấn)
B. Thượng Tế Theo Kiểu Melkiseđek
1) Melkiseđek và tế vụ của ông theo Kn 14
1 Quả vậy, Melkiseđek này là vua Salem, tư tế của Thiên Chúa Tối Cao; ông đã đón gặp Abraham trở về sau khi đã đánh bại các vua, và ông đã chúc lành cho Ngài; 2 và Abraham đã chia cho ông một phần mười về mọi sự. Trước tiên, tên ông có nghĩa là: Vua công chính; rồi ông còn là vua Salem, tức là: Vua bình an. 3 Không cha, không mẹ, không họ hàng; không khởi thủy tuổi đời, không mút cùng cuộc sống; ông khá ví được với Con Thiên Chúa, tại chức tư tế mãi mãi.
4 Hãy nghiệm mà xem: ông thật phi thường! Abraham đã cống cho ông thập phân trên phần chiến quả ưu hảo -- Ngài, một vì tổ phụ! 5 Trong khi những kẻ trong hàng con cái Lêvi lĩnh chức tư tế được lịnh bắt thuế thập phân trên dân chiếu theo Lề luật, tức là trên anh em họ, dẫu đều xuất tự cạnh sườn Abraham; 6 còn ông; không chung dòng họ; lại đã bắt thuế Abraham và đã chúc lành cho người hưởng thụ lời hứa. -- 7 Ngoài mọi dị nghị là trên mới chúc lành cho dưới! -- 8 Và bên này những người sẽ chết đi bắt thuế thập phân; còn bên kia, một người chứng thực là sống! 9 Và nếu già lời, thì ta nói được là ngang qua Abraham, cả Lêvi nữa, kẻ được quyền bắt thuế thập phân, đã bị bắt thuế, 10 vì Lêvi có đó, nơi cạnh sườn ông tổ, khi Melkiseđek đón gặp Abraham.
2) Kiểu Aharôn và kiểu Melkiseđek theo Tv 110
Tạm thời và thành tựu
11 Vậy giả như sự thành toàn nhờ tế vụ Lêvi mà có -- vì dân sống trong một luật lấy đó làm nền -- thì cần gì phải thiết lập một tư tế khác theo kiểu Melkiseđek, chứ không nói là theo kiểu Aharôn. 12 Vì một khi tế vụ đổi thay thì nhất thiết cũng có sự thay đổi Lề luật. 13 Bởi điều đó nhắm đến một người thuộc một dòng họ khác, không hề có ai đã phục vụ tế đàn. 14 Quả đã hiển nhiên là Chúa chúng ta đã xuất tự Yuđa, một dòng họ mà Môsê bàn về tư tế đã không nói gì đến.
15 Và sự còn hiển nhiên đến dư thừa, nếu vị tư tế kia lại được thiết lập theo hình dung Melkiseđek, 16 (nghĩa là) không trở thành tư tế chiếu theo luật lệ về dòng dõi xác thịt, nhưng chiếu theo quyền năng của một sự sống bất diệt. 17 Vì Ngài đã được chứng chỉ:
Ngươi là tư tế đời đời theo kiểu Melkiseđek. 18 Một đàng có sự bãi bỏ một tiền lệ, bởi nó liệt bại và vô hiệu lực, 19 vì luật đã chẳng làm được gì nên thành toàn -- còn một đàng là dẫn vào một hi vọng hoàn hảo, nhờ đó ta được lại gần Thiên Chúa.
Vượt trổi bởi lời thề của Thiên Chúa
20 Vả không phải là không có lời tuyên thệ -- vì họ thì đã trở thành tư tế mà không có lời tuyên thệ nào -- 21 Còn Ngài có lời tuyên thệ kèm theo, do Ðấng nói cùng Ngài:
Chúa đã thề và Người sẽ chẳng hề hối tiếc:
Ngươi là tư tế cho đến đời đời.
22 Chiếu theo một điều lớn lao như thế, Ðức Yêsu đã đứng làm bảo lĩnh cho một Giao ước hoàn hảo hơn.
23 Họ thì là một số đông đã làm tư tế, bởi sự chết ngăn cấm họ lưu tồn mãi mãi. 24 Còn Ngài, bởi Ngài tồn tại đời đời, thì Ngài giữ một tế vụ bất hủ. 25 Do đó Ngài có thể chung tất cứu những kẻ nhờ Ngài lại gần Thiên Chúa, sống luôn mãi để chuyển cầu cho họ.
26 Ðã hẳn, đó là vị Thượng tế thích hợp cho ta, thánh đức, vô tội, vô tì, tách hẳn khỏi lũ người tội lỗi, và cao siêu vượt các tầng trời. 27 Ðấng mỗi ngày không có nhu cầu, như các thượng tế khác, trước tiên phải hiến dâng lễ tế vì tội mình, rồi vì tội của dân, vì chưng, đó là điều Ngài đã làm -- duy chỉ một lần -- Ngài đã tự hiến chính mình Ngài. 28 Vì Lề luật thì thiết lập làm Thượng tế những người nặng nề yếu đuối; còn lời tuyên thệ, nhắm đến thời sau Lề luật, thì qui về một Người Con đã nên thành toàn cho đến muôn đời.